Ôn thi Tốt nghiệp THPT môn Tiếng Anh (Đề 16)
527 lượt thi 50 câu hỏi 60 phút
Text 1:
The science of studying birds or ornithology most likely dates back to human’s fascination (21) _______ flight. In the United States, some of the earliest recorded observations can be linked to the American naturalist and painter John James Audubon, in the early 1800s, tied threads to birds’ legs as a means to identify individuals. A century later, scientists affiliated with the Smithsonian Institution used metal bands as a means of identifying individual herons. If and when the herons were recaptured, the bands provided data on the individual birds. This method is known as mark and recapture. It is still used to (22) _______ the abundance of a population as well as track the movement of individuals.
Modern technology has provided an ever-increasing number of ways to gather data on bird populations and individuals. Electronic tracking devices were once limited to the larger breeds of birds like Trumpeter Swans and Wandering Albatrosses (23) _______ the size of transmitters. The rule of thumb was that birds not be outfitted with transmitters (24) _______ exceeded 3-5% of the bird’s body weight. Researchers needed some form of transportation to carry the cumbersome equipment. The emergence of transmitters that utilised the ARGOS satellite network in 1984 revolutionised ornithological studies. More recently, the development of lightweight sensors like geolocators that record light (25) _______ and the even smaller nanotags that emit radio signals have led to the automation of radio telemetry.
Text 2:
After two decades of growing student enrollments and economic prosperity, business schools in the United States have started to face harder times. Only Harvard's MBA School has shown a substantial increase in enrollment in recent years. Both Princeton and Stanford have seen decreases in their enrollments. Since 1990, the number of people receiving Masters in Business Administration (MBA) degrees has dropped about 3 percent to 75,000, and the trend of lower enrollment rates is expected to continue.
There are two factors causing this decrease in students seeking an MBA degree. The first one is that many graduates of four-year colleges are finding that an MBA degree does not guarantee a plush job on Wall Street, or in other financial districts of major American cities. Many of the entry-level management jobs are going to students graduating with Master of Arts degrees in English and the humanities as well as those holding MBA degrees. Students have asked the question, "Is an MBA degree really what I need to be best prepared for getting a good job?" The second major factor has been the cutting of American payrolls and the lower number of entry-level jobs being offered. Business needs are changing, and MBA schools are struggling to meet the new demands.
Dịch bài đọc:
Sau hai thập kỷ tăng chỉ tiêu sinh viên và phát triển thịnh vượng, các trường kinh tế ở Hoa Kỳ đã bắt đầu đối mặt với thời kỳ khó khăn hơn. Chỉ có trường MBA Harvard có số lượng nhập học tăng đáng kể trong những năm gần đây. Cả trường Princeton và Stanford đều chịu sự giảm tỷ lệ nhập học. Kể từ năm 1990, số lượng người nhận bằng Cử nhân ngành Quản trị Kinh doanh (MBA) đã giảm khoảng 3% xuống còn 75,000, và xu hướng giảm tỷ lệ nhập học được cho là vẫn sẽ tiếp diễn.
Có hai nhân tố gây sụt giảm số lượng sinh viên muốn lấy bằng MBA. Yếu tố đầu tiên chính là nhiều sinh viên tốt nghiệp các trường đại học theo chương trình 4 năm thấy rằng bằng MBA không đảm bảo cho họ một việc làm lương cao ở phố Wall, hay các khu tài chính khác ở các thành phố lớn của Mỹ. Nhiều công việc quản lý không yêu cầu kinh nghiệm đang hướng đến những sinh viên tốt nghiệp với bằng Cử nhân Nghệ thuật bằng tiếng Anh và Nhân văn cũng như những sinh viên có bằng MBA. Những sinh viên đã đặt ra câu hỏi, “Liệu bằng MBA có thật sự là những gì tôi cần để sẵn sàng cho việc kiếm được một công việc tốt hay không?”. Yếu tố thứ hai chính là việc cắt giảm biên chế của người Mỹ và số lượng công việc không yêu cầu kinh nghiệm thấp. Nhu cầu của các công ty đang thay đổi, và các trường MBA đang vật lộn để đáp ứng những nhu cầu mới.
Text 3:
Archaeological records ― paintings, drawings, and carvings of humans engaged in activities involving the use of hands ― indicate that humans have been predominantly right-handed for more than 5,000 years. In ancient Egyptian artwork, for example, the right-hand is depicted as the dominant one in about 90 percent of the examples. Fracture or wear patterns on tools also indicate that a majority of ancient people were right-handed.
Cro-Magnon cave paintings, some 2,000 years old, commonly show outlines of human hands made by placing one hand against the cave wall and applying paint with the other. Children today make similar outlines of their hands with crayons on paper. With few exceptions, left hands of Cro-Magnons are displayed on cave walls, indicating that the paintings were usually done by right- handers.
Anthropological evidence pushes the record of handedness in early human ancestors back to at least 1.4 million years ago. One important line of evidence comes from flaking patterns of stone cores used in toolmaking: implements flaked with a clockwise motion (indicating a right-handed toolmaker) can be distinguished from those flaked with a counter-clockwise rotation (indicating a left-handed toolmaker).
Even scratches found on fossil human teeth offer clues. Ancient humans are thought to have cut meat into strips by holding it between their teeth and slicing it with stone knives, as do the present-day Inuit. Occasionally the knives slip and leave scratches on the users' teeth. Scratches made with a left-to-right stroke direction (by right-handers) are more common than scratches in the opposite direction (made by left-handers).
Still other evidence comes from cranial morphology: scientists think that physical differences between the right and left sides of the interior of the skull indicate subtle physical differences between the two sides of the brain. The variation between the hemispheres corresponds to which side of the body is used to perform specific activities. Such studies, as well as studies of tool use, indicate that right- or left- sided dominance is not exclusive to modern Homo sapiens. Populations of Neanderthals, such as Homo erectus and Homo habilis, seem to have been predominantly right-handed, as we are.
(https://www.yeuanhvan.com/toefl-reading/1334-toefl-readings-36)
Dịch bài đọc:
Các ghi chép về khảo cổ học - tranh vẽ, hình vẽ, và các tác phẩm chạm khắc của con người về các hoạt động liên quan đến sử dụng tay - chỉ ra rằng con người chủ yếu thuận tay phải trong hơn 5,000 năm. Ví dụ, trong các tác phẩm nghệ thuật Ai Cập cổ đại, tay phải được miêu tả là tay chiếm ưu thế trong khoảng 90% các ví dụ. Các vết nứt hoặc vết mòn trên các công cụ cũng chỉ ra rằng đa số người cổ đại thuận tay phải.
Những bức tranh trong hang động của người Cro-Magnon khoảng 2,000 năm tuổi thường phác họa những đường nét của bàn tay con người được tạo ra bằng cách đặt một tay lên tường hang và vẽ màu bằng tay còn lại. Trẻ em ngày nay phác họa tay mình tương tự bằng bút chì màu tô trên giấy. Với rất ít ngoại lệ, bàn tay trái của người Cro-Magnon được thể hiện trên tường hang động, chỉ ra rằng những bức tranh thường được thực hiện bằng tay phải.
Bằng chứng nhân chủng đã ghi nhận về sự thuận tay của tổ tiên loài người sớm trở lại ít nhất 1.4 triệu năm về trước. Một dòng bằng chứng quan trọng đến từ các kiểu mài trên lõi đá dùng làm công cụ: các công cụ bị đẽo gọt theo chiều kim đồng hồ (chỉ ra người chế tạo thuận tay phải) có thể được phân biệt với những công cụ được đẽo gọt ngược chiều kim đồng hồ (chỉ ra người chế tạo thuận tay trái).
Ngay cả các vết xước được tìm thấy trên răng hóa thạch của người cũng cung cấp manh mối. Người cổ đại được cho là đã cắt thịt thành các miếng bằng cách giữ chúng giữa hàm răng và cắt nó bằng dao đá, giống như người Inuit ngày nay. Đôi khi dao bị truột và để lại các vết xước trên răng. Các vết xước có chiều từ trái sang phải (ở những người thuận tay phải) phổ biến hơn những vết xước có chiều ngược lại (ở những người thuận tay trái).
Vẫn còn những bằng chứng khác đến từ hình thái xương sọ: các nhà khoa học nghĩ rằng những sự khác biệt thể chất giữa não phải và não trái trong hộp sọ chỉ ra những khác biệt thể chất khó thấy giữa hai bên não. Sự khác nhau giữa các bán cầu liên quan đến việc bên nào của cơ thể được sử dụng để thực hiện các hoạt động cụ thể. Những nghiên cứu như thế, cũng như các nghiên cứu về sử dụng công cụ, chỉ ra rằng sự thuận bên phải hay trái không chỉ là riêng đối với người tinh khôn. Các quần thể người Neanderthal, như Người đứng thẳng và Người khéo léo, dường như cũng đã thuận tay phải, như chúng ta bây giờ.
Danh sách câu hỏi:
105 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%