Đề thi thử đánh giá tư duy Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2024 có đáp án (Đề 14)
164 lượt thi 100 câu hỏi 150 phút
Text 1:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 1 đến 10:
LANG THANG TRONG CÕI VÔ HÌNH
[0] Tây Nguyên vốn là vùng đất thần bí, hấp dẫn những người ưa khám phá, nơi đây níu chân Condominas suốt từ năm 1948 bởi vẻ hoang sơ đầy ma mị. Nhà nghiên cứu Jean Boulbet tới Bl’ao cũng với hành trang Dân tộc học đã phát hiện ra xứ sở thần linh trên địa bàn cư trú của người Mạ, Jacques Dournes đi qua miền mơ tưởng Jarai…
[1] Đêm đầu tiên lưu trú tại một ngôi nhà người K’ho được làm bằng gỗ, cất sát mặt đất, khác với những ngôi nhà “cao cẳng”, phía dưới có gầm trống chăn nuôi gia súc của người Bana Chăm (Chăm - H’roi) vùng núi Phú Yên. Tôi nhìn ngó xung quanh như kẻ trộm tìm kiếm căn cứ cho cuộc hành trình khám phá đầy hối thúc. Song, không gian cư trú của người K’ho đơn sơ, hoang vu đến mức trống trải. Nó không khỏi khiến người quan sát ngỡ ngàng, thậm chí thất vọng. Chủ nhà mời khách uống nước rồi ra đồng làm việc. Tôi tự loay hoay với cuốn sổ trên tay, không biết phải khảo tả đối tượng gì trước không gian hoang vắng?
[2] Đêm đầu tiên, Người đưa tin dặn tôi không được nằm quay chân ra cửa. Trong bụng nghĩ thầm, cha này đúng là nhiễu sự! Nằm quay chân hay đầu vào đâu có khác gì nhau! Sự thật không phải lúc nào cũng như vậy. Người Việt có tập tục không được nằm quay chân vào bàn thờ. Sự khác biệt ở đây là, đồng bào Tây Nguyên không cần đến sự ủy thác vào những đối tượng ngoại tại nhằm tìm kiếm khả năng hướng tâm. Tất cả khơi gợi ý niệm mông lung về sự tồn tại của thế giới vô hình thông qua hành vi ứng xử. Điều đó chứng tỏ, không phải lúc nào sự trỗi dậy của cái tôi bên trong hành trang văn hóa mang theo đến vùng đất lạ cũng có giá trị. Tôi lấy màn quấn chặt vào người nhằm chống lại cái lạnh tê tái vào ban đêm giữa núi rừng Tây Nguyên.
[3] Đi vào không gian tâm linh người Tây Nguyên, tất cả là một sự giản dị đến lạ lùng. Thần linh chẳng hề trú ngụ bên trong các di tượng, không có một hình tướng cụ thể nào để tạm trú hay tạm vắng sau nghi thức hành lễ, kể cả Yang, vị chúa tể có quyền uy bao trùm đời sống tinh thần cũng chỉ ẩn hiện trong cõi vô hình. Trên ngọn cây nêu treo nhúm lông gà bay phất phơ trước gió có khả năng hấp dẫn, thu hút cả đoàn người “rồng rắn” thực hành nghi lễ. Yang như một âm bản phản chiếu qua tâm thức con người. Yang koi, vị thần lúa chan chứa yêu thương cũng không hiện hữu, chỉ hiển thị qua lời cúng. Bởi vậy, Yang không thuần túy là một đơn vị thần, mà tập hợp nhiều thần linh, có lúc là Yang Bri (thần rừng), Yang Bnơm (thần núi), Yang hiu (thần nhà) hay Yang mat tơngai (thần mặt trời)… Tất cả các vị thần này đều có chung một đặc điểm: không hiện hữu.
[4] Đồng bào Tây Nguyên cho đến nay, sau khi đã du nhập Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo… nét văn hóa sơ khai, hồn nhiên vẫn tiếp tục ngự trị. Ẩn hiện qua lớp màn tập quán sinh hoạt cộng đồng, lễ hội là những dạng thức văn hóa tập thể, chan chứa nét hồn nhiên, cộng cảm để từ đó, các vị thần bước ra. Trong nghi lễ Thổi tai hay lễ Đặt tên con của người Stiêng, già làng được cha mẹ đứa trẻ mời tới tiến hành nghi thức. Trước tiên, già đọc lời cúng xin phép thần linh và tổ tiên chứng giám trước sự hiện diện của toàn thể người thân trong gia đình. Sau đó, già ngậm một ngụm rượu phun vào tai đứa bé. Bài học đầu tiên về kỹ năng lắng nghe qua màn nghi thức vô cùng giản dị. Rồi già tắm cho trẻ, lấy rượu đổ từ trên đầu xuống, những thành viên khác bắt đầu tấu chiêng, thổi M’buốt nhằm truyền đi thứ âm thanh linh diệu vào tai đứa bé. Trong tác phẩm “Rừng, đàn bà, điên loạn”, nhà Dân tộc học người Pháp Jacques Dournes nghiên cứu về tộc người Jarai mô tả nghi lễ này mang ý nghĩa khai tâm. Chủ lễ là một bà đỡ, dùng một cuộn chỉ bông đặt sát vào tai đứa trẻ, sau đó nhai nát gừng rồi thổi qua lỗ bảy lần, đi kèm với nghi thức là lời khấn thần linh. Nhiều tộc người vùng sơn cước chon von vốn được mệnh danh tư duy bằng tai.
[5] Trong nghi thức thách cưới của người Stiêng, đại diện hai bên nhà gái, nhà trai ngồi đối diện nhau cách một chiếc bàn đặt giữa sát nền đất, nhà gái (thường là người cha) trên tay cầm chiếc gậy giống như thước gỗ, miệng lẩm nhẩm bẻ ra thành từng khúc ngắn tượng trưng cho lễ vật mà nhà trai sẽ chuẩn bị. Trên bàn chẳng hề có vàng bạc đá quý, tiền hay ngân phiếu… Tất cả chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, căn cứ vào số lượng que, nhà trai sẽ mang đến cho nhà gái những lễ vật tương ứng với rượu, heo, trâu… Và giá trị thực của món quà nhận được còn tùy thuộc vào niềm tin trong tâm hồn mỗi người. Nhờ vậy, người ta đã chạm vào cõi vô hình, tạo tiền đề dựng nên miền huyễn tưởng, thế giới cho thần linh trú ngụ.
[6] Tôi mải miết leo tiếp lên đỉnh ngọn đồi cao, nơi người S’tiêng chừa lại khoảnh đất trồng lúa nương cúng thần. Chưa kịp lên tới nơi, trời đã tập kết mây đen làm một trận mưa xối xả. Mấy người đi theo vội vã chạy vào chiếc lán nhỏ dựng tạm bên lưng đồi trú mưa. Cảnh núi rừng hùng vĩ, mịt mùng chìm khuất trong mưa. Sông La Ngà mất hút sau màn mưa rơi dày đặc, phủ kín đất trời. Ngồi trong lán chờ cơn mưa tạnh, lòng nghĩ ngợi miên man và nhiệm vụ còn lại tôi dành cho trí tưởng tượng.
(Theo Lê Hải Đăng, trích Lang thang trong cõi vô hình đăng trên http://vanhoanghean.com.vn/ ngày 13/08/2020)
Text 2:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 11 đến 20:
NOVONUTRIENTS MUỐN BIẾN CO2 THÀNH PROTEIN
[1] Chúng ta đã dành một thế kỉ rưỡi qua để bơm carbon dioxide vào bầu khí quyển, và rõ ràng là chúng ta sẽ phải dành những thập kỉ tới để loại bỏ một phần đáng kể lượng đó. Nhưng sau đó chúng ta sẽ làm gì với tất cả? Một số người đang đề xuất bơm nó xuống lòng đất. Những người khác nghĩ rằng chúng ta có thể tạo ra mọi thứ từ nó, kể cả nhiên liệu lỏng và bê tông. Vấn đề là, đó là những cơ hội có lợi nhuận khá thấp hiện nay. Một công ti khởi nghiệp nghĩ rằng câu trả lời là biến carbon dioxide thành protein.
[2] Công ti đó đang có cơ hội thử nghiệm luận điểm của mình trên quy mô lớn, NovoNutrients sẽ xây dựng một nhà máy quy mô thí điểm với sự trợ giúp từ thỏa thuận đầu tư và công nghệ trị giá 3 triệu đô la từ Woodside Energy, một trong những công ti dầu khí lớn nhất của Úc, đã bắt đầu nhúng ngón chân vào vùng nước thu giữ carbon. NovoNutrients dựa vào vi khuẩn để làm công việc bẩn thỉu. Công ti đã khảo sát các tài liệu khoa học để tìm ra những loài có thể sử dụng carbon dioxide trong quá trình trao đổi chất của chúng, cho phép chúng sử dụng khí thải làm năng lượng. Các nhà khoa học cũng đã phát hiện ra các chủng mà khoa học chưa biết đến. “Công nghệ của chúng tôi là về cách bạn công nghiệp hóa quá trình trao đổi chất diễn ra tự nhiên này?” Giám đốc điều hành David Tze nói.
[3] Để làm được điều đó, công ti đã phát triển lò phản ứng sinh học của riêng mình giúp vi khuẩn phát triển trong nước đồng thời tiêu thụ carbon dioxide và các loại khí khác cung cấp năng lượng cho quá trình trao đổi chất của nước, bao gồm hydro và nguồn nitơ như amoniac. Nguồn gốc của carbon dioxide có thể là bất kì hoạt động nào đang gây ô nhiễm ngày nay, cho dù đó là hoạt động dầu khí, nhà máy hóa chất, nhà máy phân bón hay nhà máy xi măng. Tất cả những gì cần thiết là cung cấp đủ carbon dioxide đậm đặc. Mặt khác, các nhà máy của NovoNutrients sẽ sản xuất một loại bột khô có thể được tinh chế thành một số sản phẩm khác nhau, bao gồm chất bổ sung protein cho người, động vật và cá nuôi. Tùy thuộc vào loại vi khuẩn có trong bể, bột có thể được điều chỉnh để tăng giá trị của sản phẩm cuối cùng, chẳng hạn như có thể được bán cho thị trường thức ăn chăn nuôi đặc sản cho nông dân.
[4] NovoNutrients đã tự thiết kế các chủng để cải thiện hiệu suất của chúng, nhưng nó cũng có các chủng loại hoang dã và chủng thích nghi. Một số trong số đó thu được bằng cách vận hành thiết bị lên men trong 8 tháng được cung cấp bởi khí do nhà máy xi măng ở Cupertino sản xuất. Tze cho biết: “Chúng tôi đã phát triển các chủng tăng trưởng nhanh gấp ba lần so với chủng hoang dại mà chúng tôi đã bắt đầu sử dụng. Một cách khác mà công ti khởi nghiệp có thể tăng sản lượng là sử dụng nhiều chủng khác nhau trong một bể. Một chủng hoạt động để phá vỡ các đầu vào chính - carbon dioxide, hydro và nguồn nitơ - trong khi những chủng khác hoạt động trên các chất thải do chủng đầu tiên tạo ra. “Nhưng quan trọng hơn, điều đó có nghĩa là chúng ta có thể điều chỉnh dinh dưỡng bằng cách thêm hoặc bớt hoặc hoán đổi các loài hoặc chủng với khuôn khổ này,” ông nói thêm.
[5] Ít nhất là ban đầu, NovoNutrients sẽ không sở hữu bất kì nhà máy quy mô thương mại nào của mình, Tze cho biết NovoNutrients sẽ bán các vi khuẩn để duy trì hoạt động của mọi thứ và nó cũng sẽ lấy tiền bản quyền giấy phép công nghệ. “Và, tất nhiên, chúng tôi sẽ cung cấp toàn bộ gói công nghệ - cả sinh học và phần cứng - và làm việc với các công ti xây dựng mua sắm kĩ thuật, do đối tác được cấp phép của chúng tôi lựa chọn để xây dựng công trình đó. Chúng tôi sẽ đào tạo nhân viên điều hành và sẽ sẵn sàng hỗ trợ.” Các công ti đối tác sẽ quyết định sản phẩm nào họ muốn sản xuất, mặc dù NovoNutrients sẽ giúp sắp xếp các thỏa thuận bao tiêu dài hạn. “Nếu bạn là một công ti dầu khí hoặc một số công ti công nghiệp khác, thì bạn không có một… nhóm phát triển kinh doanh lâu đời biết cách làm việc với các công ti dinh dưỡng.”
[6] Những thỏa thuận đó định vị NovoNutrients là một công ti định hướng dịch vụ; một công ti sẽ cấp phép cho công nghệ cốt lõi của mình, tư vấn cho các công ti về xây dựng và vận hành nhà máy, đồng thời giúp tìm người mua sản phẩm cuối cùng. Rất nhiều công ti khởi nghiệp trong các ngành khác đã thất bại khi họ cố gắng giải quyết toàn bộ enchilada. Ví dụ, các công ti sản xuất pin vào khoảng năm 2012 chắc chắn đã lỗ quá mức và lâm vào cảnh nợ nần chồng chất do các nhà máy mà họ không được trang bị đầy đủ để xây dựng, cung cấp và quản lí. Cách tiếp cận cấp phép và dịch vụ có thể hạn chế tăng doanh thu cuối cùng, nhưng nó chắc chắn hạn chế rủi ro vốn. Nó cũng cho phép các công ti khởi nghiệp lấy công nghệ làm trung tâm - tập trung vào khoa học và công nghệ - đồng thời thu hút các đối tác thành thạo trong việc xây dựng và vận hành các dự án vốn lớn. Nếu NovoNutrients có thể tìm thấy đủ công ti phù hợp với hồ sơ đó, họ có thể đã tìm thấy một mô hình kinh doanh phù hợp với mình.
(https://techcrunch.com)
Text 3:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 21 đến 27:
Staphylococcus aureus (S. Aureus) là một chủng vi khuẩn được tìm thấy trên da của người khỏe mạnh mà không gây ra bất kỳ ảnh hưởng nào. Tuy nhiên, chúng lại sinh trưởng mạnh mẽ và có khả năng gây bệnh và truyền bệnh thông qua thực phẩm, đặc biệt là ở thịt đã qua xử lý, hoặc được nấu chín. Cần phải xác định các điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các loài vi khuẩn gây bệnh này và áp dụng kiến thức đó trong các giai đoạn sơ chế và xử lí thực phẩm. Hai nhóm sinh viên tiến hành các thí nghiệm nhằm xác định điều kiện sinh trưởng lý tưởng cho S. Aureus. Trong mỗi nhóm, vi khuẩn được cấy vào các môi trường dinh dưỡng khác nhau và phát triển trong một khoảng thời gian.
Máy đo quang phổ được sử dụng để phân tích sự phát triển của vi khuẩn trong môi trường chất lỏng, biết rằng độ đục càng tăng thì lượng vi khuẩn phát triển càng mạnh và giá trị đo được càng lớn.
Nhóm 1
Các sinh viên thực hiện thí nghiệm nhằm xác định nhiệt độ có ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của S. Aureus trong môi trường giàu dinh dưỡng hay không. Họ cho chủng vi khuẩn phát triển trong môi trường giàu dinh dưỡng có độ pH là 6 ở các nhiệt độ sau: 3℃, 20℃, 37℃, 45℃ và 60℃. Các giá trị đo từ máy đo quang phổ được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Nuôi cấy chủng vi khuẩn ở các nhiệt độ và thời gian khác nhau
Nhóm 2
Các sinh viên thực hiện thí nghiệm nhằm xác định sự ảnh hưởng của pH đến sự phát triển của S. aureus. Họ cho chủng vi khuẩn phát triển trong môi trường giàu dinh dưỡng ở nhiệt độ 37℃ và độ pH lần lượt là 3, 5, 6, 7 và 9. Các giá trị đo từ máy đo quang phổ được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2: Nuôi cấy chủng vi khuẩn ở độ pH và thời gian khác nhau
Text 4:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 28 đến 34:
Động cơ nhiệt là thiết bị biến đổi nhiệt thành công trong khi thực hiện một chu trình. Trong mỗi chu trình, năng lượng dưới dạng nhiệt lượng Q1 lấy được từ nguồn có nhiệt độ T1 một phần trở thành công có ích A và phần còn lại bị thải ra dưới dạng nhiệt lượng Q2 cho một nguồn nhiệt ở nhiệt độ thấp hơn T2. Đại lượng đặc trưng cho mức độ làm việc của động cơ nhiệt là hiệu suất nhiệt: \(e = \frac{{\left| A \right|}}{{\left| {{Q_1}} \right|}}\).
Thiết bị chuyển năng lượng dưới dạng nhiệt lượng từ nơi lạnh sang nơi nóng gọi là máy lạnh. Nhiệt lượng Q2 được lấy đi từ nguồn nhiệt có nhiệt độ thấp T2 và một công A nào đó được thực hiện trên hệ do một tác nhân bên ngoài, năng lượng chuyển dưới dạng nhiệt lượng và công được kết hợp lại và được chuyển dưới dạng nhiệt lượng Q1 cho nguồn có nhiệt độ cao T1. Máy lạnh hoạt động hoạt động sao cho công thực hiện trên hệ càng ít càng tốt. Để định giá trị của máy lạnh người ta sử dụng hệ số chất lượng (hiệu suất của máy lạnh) là: \(K = \frac{{\left| {{Q_2}} \right|}}{{\left| A \right|}}\).
Một máy sưởi được đặt trong một căn phòng có nhiệt độ ban đầu đo được là 0°C để làm nóng căn phòng lên đến nhiệt độ 25°C, đồng thời dùng một nhiệt kế thủy ngân ghi lại sự thay đổi của nhiệt độ không khí trong phòng theo thời gian. Quá trình này được lặp lại để làm nóng căn phòng đến nhiệt độ 37°C và nhiệt độ 50°C (xem Hình 1).
Tiếp theo, một máy lạnh được đặt trong một bể chứa đầy nước mặn ở nhiệt độ 50°C. Đối với ba thí nghiệm riêng biệt, máy lạnh được đặt ở chế độ để làm mát nước đến nhiệt độ lần lượt ở 25°C, 10°C và 0°C, đồng thời sử dụng nhiệt kế thủy ngân ghi lại nhiệt độ của nước mặn theo thời gian và được biểu diễn trong Hình 2.
(Lưu ý: Giả sử rằng nhiệt độ không khí đồng đều khắp phòng và nhiệt độ của nước mặn đồng đều khắp bể trong tất cả các thí nghiệm. Giả sử rằng máy sưởi và máy lạnh dùng trong các thí nghiệm luôn hoạt động hết công suất.)
Text 5:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 35 đến 40:
Một giáo viên cung cấp bảng dưới đây cho học sinh trong một lớp học khoa học. Bảng đưa ra 5 tính chất của mỗi mẫu A – H. Giả sử rằng mỗi mẫu đều là một chất tinh khiết, thể rắn.
(Lưu ý: Khối lượng, thể tích và khối lượng riêng của mỗi mẫu được xác định ở 20oC và tất cả 5 tính chất được xác định ở áp suất 1 atm)
Giáo viên yêu cầu bốn học sinh đưa ra cách giải thích riêng về phương pháp dự đoán mẫu nào được tạo thành từ cùng một chất dựa vào những dữ liệu trên.
Học sinh 1
Nếu 2 mẫu có cùng giá trị về cả năm tính chất thì chúng được tạo thành bởi cùng một chất. Nếu 2 mẫu có giá trị khác nhau về một trong năm tính chất thì chúng được tạo thành từ các chất khác nhau.
Học sinh 2
Nếu hai mẫu giống nhau về ba tính chất bất kỳ trở lên trong số năm tính chất thì chúng được tạo thành từ cùng một chất. Nếu hai mẫu có cùng giá trị đối với ít hơn ba trong số năm tính chất thì chúng được tạo thành từ các chất khác nhau.
Học sinh 3
Nếu hai mẫu có cùng khối lượng, thể tích, khối lượng riêng thì chúng được tạo thành từ cùng một chất. Nếu hai mẫu có giá trị khác nhau về bất kỳ tính chất nào trong ba tính chất này thì chúng được tạo thành từ các chất khác nhau. Bản thân điểm nóng chảy và điểm sôi đều không đủ căn cứ để phân biệt giữa các chất.
Học sinh 4
Nếu hai mẫu có cùng khối lượng riêng, điểm nóng chảy và điểm sôi thì chúng được tạo thành từ cùng một chất. Nếu hai mẫu có giá trị khác nhau về bất kỳ tính chất nào trong ba tính chất này thì chúng được tạo thành từ các chất khác nhau. Tính chất về khối lượng và thể tích đều không đủ căn cứ để phân biệt các chất với nhau.
Text 6:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 41 đến 47:
Một chủng vi khuẩn Pneumoccoci tồn tại được trong môi trường chứa penicillin nếu các tế bào của chúng có gen mã hóa beta lactamase có vai trò giúp vi khuẩn kháng penicillin. Ngoài ra, các tế bào cần có nguồn cung cấp carbon cần thiết cho sự sinh trưởng phát triển. Tất cả các tế bào của chủng vi khuẩn này đều bị nhiễm Phage I và Phage II và cả hai đều chèn DNA của chúng vào nhiễm sắc thể của vi khuẩn. Để xác định vai trò của Phage, người ta đã tiến hành gây nhiễm chủng dại với hai Phage này.
Cho 10 μl Phage I và 10 μl của Phage II vào hai ống nghiệm riêng biệt. Mỗi ống nghiệm đều chứa 5ml nước thịt có các tế bào chủng vi khuẩn Pneumoccoci kiểu dại đang sinh trưởng mạnh. Một ống nghiệm khác chứa 5 ml nước luộc thịt và chỉ có các tế bào chủng vi khuẩn Pneumoccoci mà không có phage được sử dụng làm ống đối chứng.
Thí nghiệm 1: Sau 20 phút nuôi cấy ở nhiệt độ phòng, người ta lấy từ mỗi ống nghiệm 1 μl dung dịch nuôi cấy và bổ sung thêm 1990 ml nước cất để pha loãng. Dung dịch tế bào sau khi pha loãng được cấy trải trên các đĩa thạch có chứa lần lượt glucose, saccharose và lactose. Các đĩa này được nuôi cấy ở trong tủ ấm có nhiệt độ 37oC trong 24 giờ. Kết quả thu được ở bảng 1.
Bảng 1. Kết quả thí nghiệm 1 |
|||
Đĩa |
Tế bào bị gây nhiễm bởi phage I |
Tế bào bị gây nhiễm bởi phage II |
Tế bào chủng vi khuẩn dạng dại |
Glucose |
+ |
+ |
+ |
Saccharose |
+ |
− |
+ |
Lactose |
+ |
− |
− |
Ghi chú: (+) Có sự phát triển của vi khuẩn; (−) Không có sự phát triển của vi khuẩn
Thí nghiệm 2: Từ mỗi ống nghiệm trong thí nghiệm, lấy 1 μl dung dịch nuôi cấy rồi pha loãng bằng 1990 ml nước cất. Các dung dịch tế bào sau khi pha loãng được cấy trên 3 đĩa thạch: đĩa thứ nhất chứa tetracyclin, đĩa thứ hai chứa penicillin và đĩa thạch còn lại không chứa kháng sinh nào. Các đĩa sau đó được nuôi cấy ở trong tủ ấm có nhiệt độ 37oC trong 24 giờ. Kết quả thu được ở bảng 2.
Bảng 2. Kết quả thí nghiệm 2 |
|||
Đĩa |
Tế bào bị gây nhiễm bởi phage I |
Tế bào bị gây nhiễm bởi phage II |
Tế bào chủng vi khuẩn dạng dại |
Tetracyclin |
− |
− |
− |
Penicillin |
+ |
+ |
− |
Không chứa kháng sinh |
+ |
+ |
+ |
Ghi chú: (+) Có sự phát triển của vi khuẩn; (−) Không có sự phát triển của vi khuẩn
Text 7:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 48 đến 53:
Học sinh làm các thí nghiệm sau để nghiên cứu sự tạo thành H2O.
Thí nghiệm 1:
Dẫn hỗn hợp khí gồm hydrogen (H2) và oxygen (O2) vào một ống bơm có thành dày được gắn với thiết bị đánh lửa như trong Hình 1. Sau khi piston được khóa tại chỗ, tiến hành đốt cháy hỗn hợp khí trong ống. Phản ứng xảy ra tạo nên những giọt nước.
Sau phản ứng, khí trong ống được đưa về nhiệt độ phòng và áp suất khí quyển, thể tích khí được ghi lại. Khí còn lại sau phản ứng (nếu có) được phân tích để xác định thành phần.
Quy trình được lặp lại với các thể tích khí khác nhau và kết quả được thể hiện trong Bảng 1.
Một mol của bất kì chất khí nào, trong cùng điều kiện về nhiệt độ và áp suất, đều chiếm những thể tích bằng nhau, nên phương trình sau đây đã được đề xuất:
\[2{H_2} + {O_2} \to 2{H_2}O\]
Thí nghiệm 2:
Sơ đồ thiết bị được thể hiện trong Hình 2, dòng khí hydrogen được dẫn qua ống đựng copper(II) oxide (CuO) nung nóng thu được sản phẩm gồm Cu và hơi nước. Hơi nước sinh ra được hấp thụ bởi calcium chloride (CaCl2).
Sự thay đổi khối lượng của đoạn ống chứa CuO và CaCl2 được sử dụng để tính khối lượng CuO đã phản ứng và khối lượng H2O tạo thành. Người ta xác định rằng 1 phân tử H2O được tạo ra từ 1 phân tử CuO theo phương trình phản ứng:
Text 8:
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 54 đến 60:
Để xác định và biểu diễn thành phần nguyên tố của một hợp chất hữu cơ, người ta cần tiến hành phân tích định tính và phân tích định lượng nguyên tố, sau đó thiết lập công thức kinh nghiệm cho hợp chất hữu cơ đó. Phân tích định tính nhằm xác định xem hợp chất (hay hỗn hợp) đó có chứa những nguyên tố nào, bằng cách sử dụng các phản ứng hoá học để chuyển các nguyên tố trong hợp chất hữu cơ thành các hợp chất vô cơ đơn giản và dễ nhận biết. Phân tích định lượng nhằm xác định hàm lượng các nguyên tố có trong hợp chất (tỉ lệ % về khối lượng hoặc tỉ số nguyên tử). Cũng giống như phân tích định tính, người ta dùng các phản ứng hoá học để chuyển các nguyên tố trong hợp chất hữu cơ thành các hợp chất vô cơ đơn giản như CO2, H2O, N2,.... sau đó định lượng các sản phẩm đó.
Hiện nay, việc phân tích định lượng và định tính được thực hiện trong các phòng thí nghiệm chuyên biệt với các máy phân tích tự động. Máy tính sẽ tính hàm lượng và in ra kết quả. Từ đó, người ta tính được tỉ số mol nguyên tử của các nguyên tố cấu thành hợp chất dựa theo công thức: \[nA\;:nB\;:nC\; = \frac{{\% mA}}{{MA}}\;\;:\frac{{\% mB}}{{MB\;}}\;:\frac{{\% mC}}{{MC}}\;\;\]. Khi lập công thức kinh nghiệm, tỉ số nguyên tử đã được quy về tỉ số các số nguyên tối giản, vì thế công thức kinh nghiệm còn được gọi là công thức đơn giản nhất. Công thức kinh nghiệm cho biết thành phần định tính, định lượng các nguyên tố có mặt trong phân tử nhưng không đồng nhất với công thức phân tử bởi vì một công thức kinh nghiệm có thể biểu diễn thành phần của nhiều chất mà công thức phân tử của chúng là bội số của công thức kinh nghiệm. Để lựa chọn công thức kinh nghiệm đúng, ta cần phải biết thêm một đại lượng quan trọng, đó là phân tử khối. Để xác định phân tử khối, người ta có thể:
a) Dựa vào tỉ khối
Đối với hai chất khí A và B bất kì, ta có: \[MA:MB\; = {d_{A/B}}\]. Từ đó suy ra \[MA\; = MB.{d_{A/B}}\], trong đó dA/B là tỉ khối của khí A so với khí B.
b) Dựa vào tính chất của dung dịch
Dung dịch của một chất rắn hoặc một chất lỏng khó bay hơi sẽ đông đặc ở nhiệt độ thấp hơn và sôi ở nhiệt độ cao hơn so với dung môi nguyên chất. Trong phương pháp nghiệm lạnh, người ta đo độ giảm nhiệt độ đông đặc gọi là độ hạ băng điểm, trong phương pháp nghiệm sôi, người ta đo độ tăng nhiệt độ sôi và gọi là độ tăng phí điểm, chúng được kí hiệu là Δt. Phân tử khối M của chất tan không điện li, không bay hơi được tính theo biểu thức: \[M = K.\frac{{m.1000}}{{p.\Delta t}}\]
Trong đó, K là hằng số nghiệm lạnh nếu Δt là độ hạ băng điểm; K là hằng số nghiệm sôi nếu Δt là độ tăng phí điểm; m là số gam chất tan trong p gam dung môi. Hằng số K chỉ phụ thuộc bản chất của dung môi, được xác định từ thực nghiệm và được ghi trong các bảng tính chất của dung môi.
Dung dịch khi ngăn cách với dung môi bằng một màng bán thấm (cho dung môi đi qua nhưng không cho chất tan đi qua) thì gây ra một áp suất thẩm thấu π tỉ lệ với nồng độ mol của chất tan:
Trong đó, C là nồng độ mol (mol/l); m là khối lượng chất tan trong V lít dung dịch (g); M là phân tử khối (g/mol); R là hằng số khí lí tưởng, bằng 0,08206 (lít.atm/K.mol); T là nhiệt độ Kenvin. Từ biểu thức trên sẽ tính được phân tử khối.
c) Dựa vào phổ khối lượng
Phương pháp xác định phân tử khối hiện đại và chính xác nhất là dùng máy phổ khối lượng. Phương pháp này nhanh chóng, chính xác mà chỉ cần một lượng mẫu rất nhỏ (cỡ microgam). Máy phổ khối lượng tự động ghi và in ra kết quả phổ khối lượng của chất. Từ phổ đó ta đọc được khối lượng phân tử của chất.
Danh sách câu hỏi:
Câu 39:
Dựa trên lời giải thích của Học sinh 1, hai mẫu nào sau đây được tạo thành từ cùng một chất?
Câu 48:
Phát biểu sau đúng hay sai?
Phương trình phản ứng xảy ra trong thí nghiệm 2 là: 2H2+O2→2H2O.
Phát biểu sau đúng hay sai?
Phương trình phản ứng xảy ra trong thí nghiệm 2 là: 2H2+O2→2H2O.
33 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%